- Thứ nhất là khác nhau về hình thức, bói dịch dùng thi thơ để giảng còn 
      Chu dịch dùng văn xuôi để giảng. Khác với bói dịch, Chu dịch chỉ có một lọai là 64 quẻ sáu hào, được ghi 
      chép có hệ thống dạng kinh điển , còn dùng để nghiên cứu, không như những 
      sách bói “diệc” chỉ dùng cho việc chiêm bói được lưu hành trong dân chúng. Trước hết xin nói về cách trình bày của các lọai bói dịch người Việt hay 
      xử dụng Lời giảng của của quẻ này viết theo văn xuôi nhưng được ngắt ra 4 đọan, có 
      lẽ vào đời Tần bị cấm thi thơ, các lọai sách đều phải chép lại bằng văn 
      xuôi. 1/ Thư yết Âm Dương- Ngũ Hành : 
       
        
      Cực Bắc Hình lưỡng nghi Ví dụ : không khí nóng có khuynh hướng bay lên cao, không khí lạnh có 
      khuynh hướng hạ xuống thấp. Sự kiện không khí vùng lạnh thay thế vùng nóng 
      sẽ sinh ra gió. 
       Hình tứ tượng Từ bốn khí này giao hòa thăng giáng với nhau, tạo ra sự đối kháng, chuyển 
      dịch. Đây chính là động lực phát triển cũa sự vật, hiện tượng, con người. 
      Động lực ấy thể hiện ra 8 dạng thức trong không gian, đó là bát quái. Bát 
      quái với 5 thuộc tính ngũ hành đã tạo ra vũ trụ, vạn vật, trong đó có con 
      người với hành vi của họ. b- Ngũ Hành :   
      3/ Thuyết Thiên Địa Nhân : Thuyết Thiên Địa nhân nói lên sự chi phối của 
      trời đất đối với con người. 
       Hình Hà đồ Theo các nhà nghiên cứu thì Lạc thư là một dạng Cửu tinh Đồ, là Cửu trù 
      Hồng Phạm, nếu đọc theo chiều nghịch kim đồng hồ là biểu đồ phương vị ngũ 
      hành được vận hành theo hướng khắc. 
       Từ 4 mùa âm dương lại biến đổi thành 8 tiết khí dựa trên cơ sở 2 cụm tứ 
      tượng, bắt đầu từ điểm cực âm. Theo lẽ tự nhiên, cực âm sẽ sinh dương , 
      cụm tứ tượng bên trái sẽ được sinh dương, khi dương thịnh đến điểm cực 
      dương cụm tứ tượng bên phải sẽ được sinh âm, từ đó có được hệ thống bát 
      quái gắn liền với trời như thời tiết, gió mưa, là biểu đồ bát tiết. 
       Xem xét biểu đồ trên, có thể thấy các tiết khí chuyển biến theo hướng sinh, 
      bắt đầu từ điểm cực âm theo chiều thuận kim đồng hồ : Bắt đầu từ thủy sinh 
      mộc = đông sang xuân ; mộc sinh hỏa = xuân sang hạ ; hỏa sinh thổ - vào 
      trung tâm, thổ sinh kim = hạ sang thu; kim sinh thủy = thu sang đông. 
      Hướng sinh trên thuận theo lẽ tự nhiên thành ra tám tiết khí : 
       Có lẽ để thuyết minh cho vấn đề sai lệch về các hành của hệ thống này, 
      thuyết quái truyện viết : “ Đế xuất hồ Chấn. Tề hồ Tốn. Tương kiến hồ Ly. 
      Trí dịch hồ Khôn. Thuyết ngôn hồ Đòai. Chiến hồ Càn. Lao hồ Khảm. Thành 
      ngôn hồ Cấn.”  Đọan văn khó hiểu trên có lẽ ghi lại sự tranh cãi giữa Hoa tộc và người 
      đại diện cho Hoa Hạ là Cộng công. Cộng công được biết như là một chức quan 
      trông coi về khoa học kỹ thuật ở thời ấy. Theo ghi chép của Trung Hoa, 
      giữa cháu nội Hòang đế là Chuyên Húc và Cộng Công vào thời ấy đã có sự bất 
      đồng ý kiến về khoa học kỹ thuật qua truyện kể về Cộng Công húc đầu vào 
      núi Bát Chu như sau : Bát Chu là núi Côn Lôn, ngọn núi có những quái thạch nhọn hoắt, cao chạm 
      tầng mây. Sau cú húc mạnh của Cộng Công, quả núi này lập tức gảy gập ngay, 
      đất đá lở xuống ầm ầm, cây cối ngã nghiêng, trời đất mù mịt, tưởng như xảy 
      ra động đất, bầu trời nghiêng ngã. Thì ra theo lời đồn đại, núi này chính 
      là cây cột chống trời, cột trời sụp thì dây chằng đất đứt rời từng khúc, 
      do đó phía Đông nam sụp xuống lấp bằng chỗ trũng khiến cho sông ngòi đều 
      theo dòng chảy về phía đông rồi đổ vào biển đông. Bầu trời khi đó nghiêng 
      về phía Tây Bắc cho nên các vì tinh tú , mặt trời, mặt trăng ngày ngày đều 
      mọc ở phía Đông và lặn ở phía Tây.... Phân tích câu truyện trên có thể suy ra : núi ( Cấn) Bát Chu sụp xuống làm 
      dây chằng đất (Khôn) đứt rời, có nghĩa trục Khôn-Cấn trở lại là trục thẳng 
      ; phía Đông nam (Tốn) sụp xuống , bầu trời nghiêng về phía Tây Bắc (Càn), 
      có nghĩa là trục Tốn Càn trở lại là trục ngang, các vị trí đó là 
      Càn-Khôn-Cấn-Tốn trong tư nam thời Xuân thu chiến quốc. Cuối cùng là mặt 
      trời lại mọc ở phương Đông là vị trí số 8 trên Hà đồ.
       Nhưng tại sao Cộng Công lại phải húc đầu vào núi Bát Chu ? Bởi vì núi là tượng Cấn. Liên Sơn Dịch của Hoa hạ lấy quẻ đầu là Cấn. Nói 
      là Cộng Công húc đầu vào núi Bát Chu có nghĩa là muốn sửa bái quái của tộc 
      Chu cho đúng với vị trí ban đầu. Sự bất đồng này có lẽ cũng nghiêm trọng, 
      vì sau đó những người tộc Hạ sống trên đất Tề thường lo sợ về chuyện bị 
      “trời sập”.
       Tư Mã Thiên cho rằng Hậu Thiên bát quái là sản phẩm của Văn Vương có lẽ do 
      trong các quẻ bói mà người Việt đang dùng có một số quẻ đã đề cập đến 
      những vấn đề liên quan đếnVăn Vương như: Về nguồn gốc Kinh dịch, một số nhà nghiên cứu cho rằng Kinh dịch không 
      thực sự là của Trung quốc. Ông Hondanariyouki nhận xét “ Ở Chu dịch, các 
      từ thóan tượng đều lấy tên từ các lọai muông thú phương nam (chim hồng). 
      Thêm vào đó, ở Chu dịch có “phi long”; “tiềm long” càng khiến cho người ta 
      cảm thấy Chu dịch là trước tác của người nước Sở viết ra, và ra đời sau 
      khi Trung quốc đã mở đường giao thông về phía nam Kinh Sở”. Gần đây khảo cổ học đã khai quật được một dụng cụ làm ra lửa ở Chiết Giang 
      có niên đại cách đây hơn 8000 năm, cho thấy rằng họ Tọai Nhân là người Hòa 
      Bình ở di chỉ Hemudu ở bờ nam sông Trường Giang có lẽ đã di cư lên phía 
      Bắc đến di chỉ Dawenkou ở Sơn Đông khỏang 4300 tr.cn khi vùng này bị ngập 
      mặn do nước biển dâng. Họ Tọai Nhân đã bị họ Hữu Sào , tổ tiên của người 
      Hàn quốc đến thay thế vào khỏang 3898 tr.cn. Họ Hữu sào lại bị họ Fuxi, có 
      lẽ là tổ tiên của tộc Khương cũng được gọi là Viêm Đế từ phía Tây đến thay 
      thế. Khảo sát kỹ có thể thấy được ngòai họ Khương ra Tộc Khương còn có họ 
      Phù, những cái tên có liên quan như Phù sai (Fu chai), Phù nam......v.v . 
      Phục Hy và Nữ Oa được cho là hai anh em do đó có thể Tộc Khương sau khi 
      đến Trung Hoa đã kết lại với nhóm tiền Đông Nam Á để phát triển nông 
      nghiệp. Ở Việt Nam có câu ví : bà Nữ Oa bằng ba mẫu ruộng . Ở Trung hoa vào thời Phục Hy, người xưa có lẽ đã hiểu được qui luật âm 
      dương và sự vận động của nó, đã thuận theo những qui luật ấy để phát triển 
      nông nghiệp. Trong kinh dịch cũng có đề cập đến Phục Hy đã trông trời, 
      trông đất, trông vạn vật mà vẽ quái, thời diểm này có thể là họ Phục Hy 
      không chỉ vẽ quái mà ít nhất đã biết đến tứ tượng tức là bốn mùa để theo 
      đó mà trồng trọt. Khi Thần Nông đến thì Phục Hy bị thay thế vì họ Thần 
      Nông đã phát minh ra cái cày và phương thức tát nước vào ruộng để cải tiến 
      và phát triển nền nông nghiệp của Phục Hy và Nữ Oa. Họ Thần Nông đã từng 
      vượt biển nên ắt phải có kiến thức về thiên văn khí tượng và địa lý phương 
      hướng, ắt họ phải là chủ nhân của Hà đồ. “Bói diệc” là lọai sách bói được phổ biến trong dân gian tương tự như nông 
      lịch đã được giải thích sẵn, ai xem cũng hiểu. Kinh dịch của người Trung 
      quốc, được dựa vào quẻ bói diệc, được kết hợp với những ghi chép của các 
      ẩn sĩ ở Giang nam thời ấy để sọan thảo ra dưới hình thức một lọai sách 
      triết , trong bộ kinh dịch này yếu tố tương quan giữa con người với trời 
      đất không được thể hiện đầy đủ như trong các sách bói cổ truyền người Việt 
      thường xử dụng. Một điều rõ ràng là việc sáng tạo ra học thuyết Âm dương ngũ hành , Thiên 
      Địa Nhân không phải từ trí tuệ của một người mà là trí tuệ của nhiều người 
      được tích lũy từ thời đại này sang thời đại khác do đó trong những ghi 
      chép của người xưa cũng không thấy khẳng định ai là chủ nhân của học 
      thuyết này. Việc cho rằng 64 quẻ dịch là do Văn Vương sáng tạo ra và Khổng 
      Tử biên sọan thực chất là một sự gán ghép có lựa chọn. Khổng Tử là một 
      người đã từng nghiên cứu kinh dịch, những tài liệu ấy Khổng tử lấy từ đâu 
      ra thì không nghe nói đến, chỉ biết rằng trước kia Khổng Tử chưa thực sự 
      nghiên cứu bói dịch cho đến khi ông bói được quẻ “Lữ” và mời một người họ 
      Thương Cù trong dân gian để giải quẻ cho ông. Thương Cù thị nói : “ Tiểu 
      hanh, cố bào thánh trí, nan đắc thánh vị” ý nghĩa là ôm ấp có hùng tâm xây 
      dựng sửa sang đất nước nhưng không giành được quyền vị. Tức thì Khổng Tử 
      rớt nước mắt, ngộ cảm thấy rằng đường đạo của mình khó được thi hành, từ 
      đó mới bắt đầu nghiên cứu dịch. Tuy nhiên việc bắt đầu nghiên cứu dịch và 
      việc hòan thành bộ Kinh dịch là hai việc hòan tòan khác nhau. Theo tôi, 
      những phát minh ở đất Trung hoa đều đã có từ xa xưa nhưng việc người thời 
      sau tiếp thu những tinh hoa của nền văn minh trước chỉ ở chừng mực nào đó. 
      Ví dụ như lịch pháp nhà Hạ lấy tháng Dần làm tháng mở đầu cho một năm, khi 
      nhà Ân Thương lên thay, lấy tháng Sửu làm tháng mở đầu cho một năm, đời 
      Chu lấy tháng Tý làm tháng đầu năm, nhà Tần lấy tháng Hợi làm tháng đầu 
      năm. Đến thời Hán các biến cố như nhật thực , nguyệt thực, hạn hán lũ lụt 
      đều xảy ra khác với thời điểm được ghi trong lịch. Đúng vào lúc Tư mã 
      Thiên đến Giang nam tìm sử liệu được một cụ già ở đất Thương ngô tặng cho 
      bộ sách trúc giản vớt được trên sông Tương. Đó chính là bộ “nhật thư” bí 
      truyền của người Hạ . Hán vũ đế đã theo lời tấu của Tư mã Thiên, truyền 
      chiêu mộ ẩn sĩ ở miền Giang nam để điều chỉnh lịch theo phương pháp của 
      nhà Hạ, sau khi hoàn thành đặt tên là lịch Thái sơ. Để giải thích, Chu Hy viết : “Về cách tính thời gian nên theo nhà Hạ, 
      nghĩa là nên lấy kiến Dần chi nguyệt làm tháng mở đầu cho bốn mùa. Hàng 
      năm lấy thời kỳ vạn vật sinh sôi nảy nở phồn thịnh làm kỳ mở đầu cho bốn 
      mùa. Cách tính của nhà Hạ giản tiện hơn cả vì thế nên theo… trời mở đầu 
      cung Tý, đất mở đầu cung Sửu, người mở đầu cung Dần. Tam đại lần lượt thay 
      đổi mà noi theo. Nhà Hạ coi cung Dần là nhân chính phù hợp với người nên 
      lấy kiến dần chi nguyệt làm chính nguyệt. Nhà Ân coi cung Sửu là Địa chính 
      phù hợp với đất nên lấy kiến Sửu chi nguyệt làm chính nguyệt. Nhà Chu coi 
      cung Tý là Thiên chính phù hợp với trời nên lấy kiến Tý chi nguyệt làm 
      chính nguyệt. Tính tháng năm dịnh bốn mùa cốt để cho dân tiện làm ăn sinh 
      sống, tiện hoàn thành mọi việc. Vì vậy khi tính năm tháng, định bốn mùa 
      nên lấy sự phù hợp với người làm đầu mối. Chính vì vậy mà nhà Hạ lấy kiến 
      Dần chi nguyệt làm tháng mở đầu của một năm” Ngoài ra không thấy Chu Hy giải thích vì sao nhà Tần lại lấy kiến Hợi chi 
      nguyệt làm chính nguyệt.
      - Thứ hai là bói dịch có nhiều lọai gồm :
      8 Quẻ ba hào như Liên Sơn dịch đời Hạ có quẻ đầu là Cấn, Qui tàng dịch đời 
      Thương có quẻ đầu là Khôn.
      32 Quẻ năm hào như “Tam Bửu Hiệp nhứt” người Việt hay thường sử dụng
      64 Quẻ sáu hào “ Bói dịch cổ truyền” người Việt hay thường sử dụng
      Quẻ năm hào .Ví dụ: quẻ Giá sắc
       
      Nội dung :                              Dịch nghĩa :
      Thả thủ quân tử phận.             Quân tử nên giữ phận
      Vật dụng tiểu nhân ngôn.         Chớ nghe lời tiểu nhân
      Phàm sự giai đương cẩn          Mỗi việc nên cẩn thận
      Tác phước bảo an nhiên          Làm lành vậy mới yên
      
      Quẻ sáu hào . Ví dụ : Phong Sơn Tiệm ( Hồng nhạn phi cao)
      Ý nghĩa : Chim Hồng nhạn được sổ lồng bay xa. 
      Tiến từ từ bay lên mây trong sự thông đạt thong dong.
      Không có gì cản trở.
      Nhưng không thể bay vụt từ trong lồng lên mây ngay được.
      Giải đóan : Vận khí thịnh đạt dần dần. Công việc mỗi ngày đều phát triển 
      đều đặn. Không gặp trở ngại. Thành quả rất to lớn so với lúc khởi sự.
      Lời khuyên: Giữ tiết hạnh thanh cao. Ung dung không vội vả.
      Phụ chú : Giải trừ mọi tai ương. Tuy tiến chậm nhưng rất yên ổn.
      Hào 1 : trung bình, tiến hơi chậm
      Hào 2 : rất tốt
      Hào 3 : trung bình
      Hào 4 : tốt
      Hào 5 : tốt
      Hào 6 : rất tốt, đại cát
      Ứng hạp : Tuổi Bính : Thìn, Ngọ, Thân
      Tuổi Tân : Mão, Tỵ, Mùi
      Tháng 1
      Hành thổ
      Tiếp đến là cách trình bày quẻ trong Kinh Dịch : Quẻ Phong Sơn tiệm ( xin 
      không trích giảng hào từ)
      Thóan từ: Tiệm, nữ qui cát, lợi trinh.
      Dịch : Tiến lần lần, như con gái về nhà chồng, tốt; giữ đạo chính thì lợi.
      Giảng : Quẻ này là Tốn ( cây), dưới là Cấn( núi). Trên núi có cây, có cái 
      tượng dưới thấp lần lần lên cao, nên đặt là Tiệm.
      Tiến mà lần lần, không nóng nảy, vẫn tỉnh như nội quái cấn, vẫn hòa thuận 
      như ngọai quái Tốn thì không bị vấp váp, không bị khốn cùng.
      Hào từ :
      - Sơ lục : Hồng tiệm vu can, tiểu nhân lệ, hữu ngôn vô cửu.
      Dịch : Hào âm 1, con chim Hồng tiến đến bờ nước, nhỏ dại cho là nguy, than 
      thở nhưng không có lỗi.
      - Lục nhị : Hồng tiệm vu bàn, ẩm thực khản khản, cát.
      Dịch: Hào 2 âm, chim hồng tiến đến phiến đá lớn, ăn uống thảnh thơi, tốt
      - Cửu tam : Hồng tiệm vu lục, phu chinh bất phục, phụ dựng bất dục, hung 
      lợi ngự khẩu.
      Dịch: Hào 3 dương, chim hồng tiến tới đất bằng, chồng đi xa không về, vợ 
      có mang không nuôi, xấu, đuổi cướp thì có lợi.
      - Lục tứ : Hồng tiệm vu mộc, hoặc đắ kỳ giốc, vô cửu.
      Dịch : Hào 4 âm, chim hồng nhảy lên cây, may tìm được cành thẳng mà đậu, 
      không có lỗi.
      - Cửu ngũ : Hồng tiệm vu lăng, phụ tam tuế bất dụng, chung mạc chi thắng, 
      cát.
      Dịch : Hào năm dương, chim hồng lên gò cao, vợ ba năm không sinh đẻ, nhưng 
      cuối cùng không có gì thắng nổi điều chính, tốt.
      - Thượng cửu : Hồng tiệm vu qui, kỳ vũ khả dụng vi nghi, cát.
      Dịch : Hào trên cùng dương, chim hồng bay bổng ở đường mây. Lông nó có thể 
      dùng làm đồ trang sức, tốt.
      
      Hai lọai dịch trên mặc dù có khác nhau về hình thức, nhưng nhìn chung tất 
      cả đều có đặc điểm là có hào âm,hào dương. Âm dương được hình thành do sự 
      vận động của vũ trụ. Sự vận động này thuận theo chiều hướng sinh của ngũ 
      hành hình thành bát quái. Đó là học thuyết Âm dương- Ngũ hành của người 
      xưa.
      a- Sự hình thành Âm Dương :
      Thái cực vận động sinh ra lưỡng nghi, tức là hai khí : Âm và Dương. Phần 
      dương thì động, nóng, sáng, trong, nhẹ, nổi lên trên sinh ra khí dương và 
      nơi tích lũy nhiều khí dương là bầu trời được ký hiệu là ( ). Dương được 
      sinh ra từ cực Bắc và bên trái chủ dương.
      Phần âm thì tỉnh, lạnh, tối, đục, nặng, chìm xuống dưới sinh ra khí âm và 
      nơi tích lũy nhiều khí âm là đất được ký hiệu là ( ) . Âm được sinh ra từ 
      cực Nam và bên phải chủ âm.
      
      Cực Nam
      
      Âm dương có sự liên hệ thần bí, đó là sự hấp dẫn lưỡng tính thần kỳ. Theo 
      Lôi Đạc, trong tác phẩm Mỗi ngày 10 phút với Chu Dịch, nhà ảo thuật Trung 
      quốc nổi tiếng là Tàng quốc Chân đã phát hiện điều này khi đem hai con 
      thạch sùng đực, cái ném mạnh xuống đất. Khi đuôi của hai con thạch sùng bị 
      đứt, chúng nhảy nhót trên mặt đất, rồi hai chiếc đuôi ngày càng gần lại 
      với nhau, dựa sát vảo nhau sau đó bám chặt lấy nhau thành hình “bánh quấn 
      thừng:. Thế nhưng dùng hai con thạch sùng cùng giống thì không thấy có 
      hiệu ứng này. Một thử nghiệm khác nữa là bắt vài con thạch sùng có bốn 
      chân, phân biệt đực – cái, chặt đuôi và lột da chúng ra, sau khi đốt cháy 
      nghiền thành bột, đổ vào hai cây nến rỗng ruột, đặt trên bàn cách nhau 30 
      cm, châm lửa trên hai cây nến đó. Điều kỳ dị đã xuất hiện, hai ngọn lửa 
      hấp dẫn nhau, dần dần dựa sát vào nhau, cuối cùng dính lại tạo thành một 
      tuyến lửa nằm ngang như chiếc cầu vồng được đặt tên là “ cầu lửa”.
      Qua phát hiện đó có thể thấy được tuy âm dương là hai yếu tố tương phản 
      nhau nhưng trong mọi vật hai yếu tố âm dương luôn dung hòa lẫn nhau, tương 
      giao cùng nhau, bổ túc cho nhau, liên kết với nhau rất mật thiết. Cả hai 
      đều đóng vai trò quan trọng trong sự sinh thành của muôn vật, tất cả sự 
      biến hóa trong vũ trụ đều có thể giải thích bằng hiện tượng chuyển biến 
      của âm dương. Âm trưởng thì dương sẽ tiêu, dương trưởng thì âm sẽ tiêu, âm 
      tăng đến chỗ cực thịnh thì dương sẽ phát sinh và âm sẽ phải thóai dần, khi 
      dương tăng đến chỗ cực thịnh thì âm sẽ phát sinh và dương sẽ thóai dần, đó 
      là lẽ tuần hòan của âm dương trong trời đất như : Mùa đông âm khí nhiều 
      khí hậu lạnh. Cuối đông âm khí thịnh, dương khí bắt đầu phát sinh. Qua 
      xuân dương khí mới phát sinh còn non, khí hậu ấm áp dần dần. Đến mùa hạ 
      dương khí tăng trưởng, khí hậu nóng. Cuối hạ dương khí cực thịnh khí hậu 
      nóng bức và âm khí sẽ phát sinh. Qua mùa thu âm khí mới phát sinh còn non 
      khí hậu mát, âm khí dần dần tăng trưởng lại bước qua đông.... cứ như thế 
      mà tiếp diễn ; hoặc cũng như chuyển biến âm dương trong ngày đêm : từ nửa 
      đêm – sáng sớm – giữa trưa – buổi chiều – lại nửa đêm. Sự âm tiêu dương 
      trưởng và dương tiêu âm trưởng tiếp diễn nhau rất cần thiết để điều hòa sự 
      tuần hòan của trời đất, nếu dương cực thịnh mãi mà âm khí không phát sinh 
      hoặc ngược lại thì trời đất bất hòa và sự sinh hóa của của muôn vật sẽ rối 
      lọan như : chỉ có đêm mà không có ngày hay ngược lại, thời tiết nóng mãi 
      hoặc lạnh mãi đều bất lợi cho sự sinh trưởng của vạn vật. Mặt khác, trong 
      sự chuyển hóa để tương giao với nhau, dương khí có khuynh hướng thăng cao 
      lên tức ly tâm, âm khí có khuynh hướng giáng xuống thức hướng tâm. Đó là 
      dương thăng, âm giáng.
      Sự vận động của âm dương sẽ sinh ra 4 khí gọi là tứ tượng : Thái âm –Thiếu 
      dương – Thái dương – Thiếu âm
      Bát quái với tính chất gắn liền với bầu trời xin được tạm gọi là “Thiên 
      Bát Quái”
      Bát quái có tính chất gắn liền với trái đất xin được tạm gọi là “ Địa Bát 
      Quái”
      Ngũ hành được cho là 5 dạng vật chất gồm :
      - Hành Thủy tượng trưng cho nước
      - Hành Mộc tượng trưng cho cây cối
      - Hành Hỏa tượng trưng cho lửa
      - Hành Thổ tượng trưng cho đất
      - Hành kim tượng trưng cho kim lọai.
      
      Căn cứ vào tính chất các hành trên có sự sinh, khắc với nhau
      Ngũ hành tương sinh : 
      Thủy sinh Mộc 
      - Mộc sinh Hỏa 
      - Hỏa sinh Thổ 
      - Thổ sinh Kim
      - Kim sinh Thủy 
      Ngũ hành tương khắc :
      - Thủy khắc Hỏa
      - Hỏa khắc Kim
      - Kim khắc Mộc
      - Mộc khắc Thổ
      - Thổ khắc Thủy
      Năm hành trên được xếp thành các phương vị trên Hà Đồ, Lạc Thư.
      - Thiên : Thiên can là tọa độ không gian được thể hiện ở 10 vị trí : Giáp 
      , Ất , Bính , Đinh , Mậu , Kỷ , Canh , Tân , Nhâm , Quí. Thiên là khỏang 
      không gian bao la, trong Thiên có ba yếu tố hợp thành là Nhật ( mặt trời) 
      ; Nguyệt ( mặt trăng) ; Tinh ( các vì tinh tú). Vạn vật con người chuyển 
      dịch trong không gian theo 10 thiên can, được Nhật, Nguyệt, Tinh chiếu vào 
      tác động ảnh hưởng suốt cả cuộc đời, do vậy yếu tố năm, tháng, ngày, giờ 
      sinh được người xưa cho là có thể quyết định được vận mệnh của từng người.
      - Địa : Địa chi là tọa độ thời gian được thể hiện ở 12 vị trí thời gian 
      trong năm , tháng, ngày, giờ gồm : Tý, Sửu, Dần, Mão, Thìn, Tỵ, Ngọ, Mùi, 
      Thân, Dậu, Tuất, Hợi. Địa được cấu thành bởi 3 yếu tố thủy , hỏa , phong. 
      Từ yếu tố địa , người xưa hình thành nên môn địa lý phong thủy dùng để xem 
      xét sự vận động hài hòa của thủy hỏa phong, nếu mất cân bằng trong vận 
      động của ba yếu tố này ở một địa điểm mà một người đang sinh sống thì 
      người đó sẽ gặp trở ngại và tai họa.
      Tóm lại, nói Thiên Địa Nhân là nói con người luôn luôn bị chi phối bởi 
      Thiên và Địa, ba yếu tố này tương tác lẫn nhau, con người muốn tồn tại, 
      sinh sống bình thường phải có sự cân bằng giữa bản thân với thiên địa. 
      Không gian Dịch là không gian Thiên Địa Nhân, là thế giới của âm dương 
      giao hòa, chuyển hóa cho nhau, thế giới giữa hai mặt đối lập tồn tại và bổ 
      xung cho nhau nên khi nắm bắt được chuyển động đó người xưa đã lập ra mô 
      hình trạng thái không gian gọi là âm, dương ( lưỡng nghi). Âm, dương vận 
      động sinh ra bốn khí gọi là tứ tượng, lại tiếp tục vận động thành ra bát 
      quái
      
      2/ Hà Đồ – Lạc Thư :  
      Hà Đồ- Lạc Thư đã được người Trung hoa xem như nguồn gốc của bát quái có 
      nghĩa là sự hình thành của bát quái phải được gợi ý của Hà đồ-Lạc Thư, 
      thánh nhân mới dựa vào đó mà phỏng theo. Hình dạng của Hà Đồ - Lạc Thư ra 
      sao không ai biết được , chỉ nghe nói đến từ cháu của Không Tử là Khổng An 
      Quốc nhưng mãi đến đời Tống hai đồ hình đó mới thấy phổ biến. 
      Căn cứ vào “ Dịch học Tượng số luận” của Hòang Tông Nghi thì Trần Đòan đã 
      truyền cho Chủng Phóng, Chủng Phóng truyền cho Lý Khái, Lý Khái truyền cho 
      Hứa Kiên, Hứa Kiên truyền cho Phạm Ngọc Xương, Ngọc Xương truyền cho lưu 
      Mục. Lưu Mục căn cứ vào Hà đồ-Lạc Thư trước tác ra “ Dịch số câu ẩn đồ”, 
      bức đồ của ông mới được đông đảo người biết đến. Cho đến nay người ta cũng 
      chưa hiểu được, vào đời Tống, vị đạo sĩ ở Hoa Sơn là Trần Đòan đã lấy ở 
      đâu ra được những hình Hà đồ-Lạc Thư ấy.
      Sau khi Hà đồ-Lạc Thư ra đời, một bộ phận trong học phái này chia rẽ. Một 
      số người không tin vào những thứ này, nhà Đại văn học Âu Dương Tu cho rằng 
      : “đầu độc sai lầm vào những người học giả, gây tác hại đâu có nhỏ”. Cuộc 
      tranh luận này kéo dài tới cuối đời Thanh, Dân quốc, thậm chí đến sau ngày 
      giải phóng .
      a- Hà Đồ: Theo ghi chép của người Trung Hoa, Hà đồ là vật mà Hòang Đế được 
      trời ban cho từ sông Hòang Hà, trên lưng con long mã, đồ hình có 5 cặp số 
      được sắp xếp như sau : 1 với 6 ở dưới là số sinh thành của thủy ở phía Bắc
      2 với 7 ở trên là số sinh thành của hỏa ở phía Nam.
      3 với 8 ở bên trái là số sinh thành của mộc ở phương Đông
      4 với 9 ở bên phải là số sinh thành của kim ở phương Tây
      5 với 10 là số sinh thành của thổ ở trung ương.
      Hà đồ là bức đồ đầu tiên của kinh dịch, sự vận hành của nó theo chiều 
      hướng sinh của ngũ hành. Bắt đầu từ thủy sinh mộc = đông sang xuân; mộc 
      sinh hỏa = xuân sang hạ; hỏa sinh thổ - vào trung tâm, thổ sinh kim = hạ 
      sang thu; kim sinh thủy = thu sang đông.
      b-Lạc Thư : Theo truyền thuyết Lạc thư do thần qui mang trên lưng nên có 
      tượng con rùa đầu đội 9, đuôi mang 1, bên trái mai mang 3, bên phải mai 
      mang 7, vai bên trái mang 4, vai bên phải mang 2, chân trái mang 8, chân 
      phải mang 6, giữa lưng mang 5
      
      
      Hình Lạc Thư
      Do vậy, theo thiển nghĩ, bát quái phải được dựa vào Hà đồ để thiết lập vì 
      ngũ hành có tương sinh thì muôn vật mới được sinh hóa, nói lên sự sinh 
      sinh nối tiếp nhau không ngừng của đạo dịch. 
      Thử vẽ Bát quái :
      1/ Thiên Bát quái : ( biểu đồ tiết khí)
      
      Bốn Mùa 
      
       

       
      - Khôn : cực âm ( ) tiết đông chí - dương thủy- vị trí số 1
      - Chấn : bắt đầu sinh dương ( ) tiết lập xuân - âm mộc- vi trí số 8 
      - Ly : âm tiêu dương trưởng ( ) tiết xuân phân - dương mộc - vị trí số 3
      - Đòai : dương thịnh ( ) tiết lập hạ - âm hỏa - vị trí số 2
      - Kiền : cực dương ( ) tiết hạ chí - dương hỏa - vị trí số 7
      - Tốn : bắt đầu sinh âm ( ) tiết lập thu - âm kim - vị trí số 4
      - Khảm : dương tiêu âm trưởng ( ) tiết thu phân-dương kim-vị trí số 9 
      - Cấn : âm thịnh ( ) tiết lập đông - âm thủy - vị trí số 6
      
      Thứ tự của bát quái trên thuận theo hướng sinh là : Khôn, Chấn, Ly , Đòai 
      , Kiền , Tốn , Khảm , Cấn, được hiểu như một hệ thống bát quái có tính 
      chất gắn liền với trời như : thời tiết, khí tượng , gió mưa.... Hệ thống 
      này được Trung Hoa gọi là Tiên Thiên Bát Quái. Tuy vậy , người Trung hoa 
      không dùng Tiên thiên bát quái để giải thích thời tiết mà dùng để giải 
      thích về địa lý, phương hướng như sau :
      - Khôn : là đất nên ở phương Bắc, vì phương bắc giá lạnh nên thuộc thủy
      - Chấn : ở Đông bắc vì gió từ Tây nam thổi qua đông bắc gây tiếng động, 
      hoặc sáng (ly) tối (khảm) cọ sát nhau sinh ra sấm.
      - Ly : là mặt trời nên ở phương đông,vì mặt trời mọc ở phương đông
      - Đòai : ở Đông nam vì phía Đông nam Trung hoa nhiều đầm hồ
      - Kiền : là trời nên ở phương nam, phương nam nóng thuộc hỏa
      - Tốn : ở Tây nam là nơi nóng (nam) và lạnh (tây) xô xát sinh ra gió
      - Khảm : là mặt trăng nên ở phương Tây, vì mặt trăng hiện ra ở phương tây
      - Cấn : ở Tây bắc vì tây bắc Trung hoa có nhiều đồi núi.
      
      2/ Địa bát quái : ( biểu đồ địa lý phương hướng)
      Về Địa bát quái, hiện nay chưa rõ được kết cấu như thế nào nhưng cũng xin 
      đề xuất đồ hình để tham khảo
      
       

      Ví dụ : Địa bát quái                                                         Hậu Thiên bát quái
      
       
          
      - Cấn , hành thổ mượn vị trí số 1, có ba hào : âm+âm+dương= dương thổ
      - Chấn ở vị trí số 8 thuộc mộc, có ba hào : dương+dương+âm= dương mộc
      - Tốn ở vị trí số 3 thuộc mộc, có ba hào : dương+dương+âm = âm mộc
      - Ly ở vị trí số 2 thuộc hỏa, có ba hào : dương+âm=dương = âm hỏa
      - Khôn hành thổ mượn vị trí số 7, có ba hào : âm+âm+âm = âm thổ
      - Đòai ở vị trí số 4 thuộc kim, có ba hào : dương+dương+âm = âm kim
      - Kiền ở vị trí số 9 thuộc kim, có ba hào : dương+dương+dương = dương kim
      - Khảm ở vị trí số 6 thuộc thủy, có ba hào : dương+âm+dương = dương thủy
      
      So sánh với Hậu thiên bát quái của Văn Vương:
      - Cấn mượn vị trí số 8 thuôc thổ
      - Chấn ở vị trí số 3 thuộc mộc
      - Tốn ở vị trí số 2 thuộc hỏa
      - Ly ở vị trí số 7 thuộc hỏa
      - Khôn mượn vị trí số 4 thuộc thổ
      - Đòai ở vị trí số 9 thuộc kim 
- 
          Khảm ở vị trí số 1 thuộc thủy
          
Xét theo bát quái phong thủy thì Tốn phải thuộc mộc và Kiền phải thuộc kim, 
      như vậy Hậu thiên bát quái xem ra có vấn đề. Hệ thống này chỉ đúng khi 
      đứng ngòai Hà đồ, tuy nhiên âm dương ngũ hành khi tách rời nhau sẽ không 
      còn ý nghĩa, do vậy suy cho cùng vẫn là sai. Một điểm sai nữa là người 
      Trung hoa không dùng hệ thống bát quái này để giải thích về địa lý mà gọi 
      đó là Bát tiết bát quái :
- Cấn : Tiết lập xuân,
- 
          Chấn : Tiết xuân phân
- Tốn : Tiết lập hạ
- 
          Ly : tiết hạ chí
- Khôn : tiết lập thu.
- Đòai
          : tiết thu phân
- Kiền : tiết lập đông
- 
          Khảm : tiết đông chí
      Thuyết quái truyện cũng có lời giải thích cho đọan văn khó hiểu trên : 
      “Vạn vật xuất ở Chấn , Chấn thuộc phương đông . Gọn gàng ở Tốn , Tốn thuộc 
      đông nam, gọn gàng là muốn nói muôn vật đều sạch sẽ . Ly là sáng, vạn vật 
      cùng thấy nhau, là quẻ ở phương Nam, đấng thánh nhân quay về phương nam mà 
      nghe thiên hạ, hướng vào nơi ánh sáng mà trị là tượng ở đấy. Khôn là đất, 
      muôn vật đều được nuôi dưỡng ở đó, cho nên nói là làm việc ở Khôn. Đòai là 
      chính thu, vạn vật đều vui vẻ, nên nói vui vẻ là nói ở Đòai. Đánh nhau ở 
      Kiền, Kiền là quẻ ở tây bắc, đó là nói về âm dương xô xát vậy. Khảm là 
      nước, là quẻ ở chính Bắc, là quẻ khó nhọc, muôn vật đều ở đó nên nói khó 
      nhọc ở Khảm. Cấn là quẻ đông bắc, nơi muôn vật thành ở lúc cuối và lúc đầu, 
      nên nói thành là nói Cấn”.
      Lời giải thích trên khi đọc xong lại càng thấy khó hiểu, nên xin được đề 
      xuất lời giải thích khác như sau : 
      - Đế xuất hồ Chấn : là mặt trời mọc ở phương đông.
      Vấn đề chính là đây. Theo tôi, vị trí mặt trời mọc là vị trí bước qua số 1 
      của Hà Đồ, là qua cực Bắc đã sinh dương, về thời khắc thì vào giờ Dậu nên 
      Chấn phải ở vị trí số 8 thuộc mộc. Đối với người tạo ra Hậu thiên bát quái 
      thì Chấn phải ở vị trí số 3 thuộc mộc là nơi mặt trời ló dạng, về thời 
      khắc thì vào giờ Mẹo.
      - Tề hồ Tốn : do mang Chấn đặt vào vị trí số 3 , là chỗ của Tốn, nên phải 
      sắp xếp lại vị trí của Tốn.
      - Tương kiến hồ Ly : Tốn bị bỏ ra phải vào vị trí số 2 thuộc hỏa, là vị 
      trí của Ly, nên nói là gặp nhau ở cung Ly.
      - Trí dịch hồ Khôn : dể Ly có chỗ phải suy tính dời Khôn đi.
      - Thuyết (duyệt) ngôn hồ Đòai : Khôn được dời vào vị trí số 4 thì Đòai 
      phải vào vị trí của Càn ở số 9 thuộc kim, đến Đòai thì thuyết phục được.
      - Chiến hồ Càn : tranh cãi ở Càn. Khi Đòai vào vị trí của Càn thì Càn phải 
      dời vào chỗ của Khảm số 6 thuộc thủy mà Càn thì thuộc kim.
      - Lao hồ Khảm : mặc dù Càn thuộc kim nhưng vì muốn thực hiện việc chỉnh 
      sửa trên nên phải ép Càn vào ở vị trí của Khảm nên nói là lao hồ Khảm
      - Thành ngôn hồ Cấn : đến cung Cấn thì kết luận, đã quyết định xong.
      Cộng Công là người có công lao rất lớn trong phát triển nông nghiệp của 
      Trung hoa được dân chúng tôn là Thủy sư tức thần nước. Con của ông là Hậu 
      thổ cũng có năng lực trong nghề nông được dân chúng tôn là Xã thần tức 
      thần đất, là các thần quản về thủy lợi. Sau khi nghiên cứu kỹ lưỡng tình 
      hình đất ở 9 châu họ đã thống nhất là phải sửa bằng đất đai, tuy nhiên ý 
      đồ này không được Chuyên Húc đồng ý. Cộng công vì giận mà húc đầu vào núi 
      Bát Chu.
      Quẻ “Vị thủy phong hiền” còn gọi là Sơn Lôi di :
      Khương Tử Nha là bậc đại hiền. 
      Ngồi câu cá chờ thời bên bờ sông Vị thủy.
      Vua Văn Vương nghe tiếng đích thân đến tận nơi thỉnh ra giúp nước.
      Rước về tôn làm thường phụ.
      Quẻ “ Phượng minh Kỳ sơn”- Thiên trạch lý :
      Phượng hòang bất thần xuất hiện ở núi Kỳ sơn cất tiếng gáy.
      Báo hiệu điềm lành. 
      Vua Văn Vương ra đời.
      Tạo dựng một thời đại thái bình thạnh trị.
      
      Quẻ “Trảm tướng phong thần” - Thủy trạch tiết : 
      Đời nhà Thương có vua trụ bạo ngược.
      Khương Tử Nha vì đại nghĩa diệt được Trụ vương.
      Muốn cho óan khí của quân thù tiêu tán để quốc thái dân an.
      Nên đã lên “Vạn phong Sơn” cầu siêu, phong thần cho tướng sĩ tử trận.
      Nói về các tộc người đã từng sinh sống trên đất Trung Hoa, Theo http://xemtuong.net/img/www.uglychinese.org 
      thì trên đất Trung Hoa thời xa xưa đã có họ Suiren ( Tọai Nhân), sau đó họ 
      You Chao ( Hữu sào) đã thay thế họ Tọai nhân, tiếp nữa là họ Fuxi ( Phục 
      Hy) và Nuwa ( Nữ oa) đã thay thế họ Hữu sào, sau cùng là họ Shennong (Thần 
      nông) đã thay thế họ Phục Hy. 
      Theo truyền thuyết cũng như thuyết quái truyện của kinh dịch thì họ Tọai 
      nhân đã phát minh ra “lửa” ; họ Phục Hy đã phát minh ra “ cái lưới” và chữ 
      viết dưới dạng “thắt nút kết thằng” ( chữ khoa đẩu ?) để ghi việc, đã biết 
      trồng trọt chăn nuôi ; họ Thần Nông phát minh ra “cái cày” , mở chợ lập 
      làng , tìm ra cây thuốc. Đó chính là Tam Hòang. Ngòai ra không thấy đề cập 
      đến Hữu Sào đã phát minh ra những gì.
      Với các chi tiết đã trình bày trên, tôi cho rằng học thuyết Âm dương ngũ 
      hành và thuyết Thiên Địa Nhân có nhiều hy vọng là của người tiền Việt nam. 
      Nó được ra đời không nhằm mục đích chiêm bói mà trước tiên để tiên đóan 
      thời tiết và xác định phương hướng nhằm phục vụ cho nghề đi biển và nghề 
      nông , các vì sao được quan tâm trước tiên là sao Bắc Cực và sao Bắc đẩu.
      
      Như vậy đã thấy rằng việc tiếp thu tinh hoa của tộc Hạ chỉ bắt đầu vào 
      thời Hán.Thời điểm ấy tinh hoa của Trung hoa phát ra ào ạt nhờ vào chủ 
      trương chiêu hiền đãi sĩ của Hán Cao tổ. Vào thời này, những nhân tài Việt 
      trên đất Hoa ban đầu sống như những ẩn sĩ. Sĩ là một từ để chỉ tầng lớp 
      tri thức ở Trung quốc. Ẩn sĩ là những người có tri thức, hoàn toàn vượt ra 
      ngoài vòng chính trị, có thái độ bất hợp tác và phản kháng chính quyền 
      đương thời, họ là những nhân sĩ tinh anh sáng tạo văn hóa, giáo hóa quần 
      chúng. Thấy được tác dụng tiềm ẩn trong lớp nhân sĩ, Hán Cao tổ Lưu Bang 
      khi lên ngôi được 11 năm đã có chiế                    
 Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Đoan Trang(XemTuong.net) 


